Đồng bào Pác Bó và nhân dân các
dân tộc Cao Bằng vinh dự, tự hào là nơi đón người con ưu tú nhất của dân tộc
Việt Nam - Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, sau 30 năm bôn ba hoạt động ở nước
ngoài, tìm đường cứu nước, cứu dân trở về Tổ quốc (đầu năm 1941),
trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Từ đây, Pác Bó - Hà Quảng - Cao Bằng trở
thành đại bản doanh của căn cứ địa Việt Bắc, trở thành chiếc nôi của cách mạng
Việt Nam.
Theo GS. Phan Ngọc Liên: “Căn cứ địa cách mạng là khu vực lãnh thổ có
đầy đủ các yếu tố địa lợi, nhân hòa”, “Tiến khả dĩ công, thoái khả dĩ thủ”, có
cơ sở vững chắc về chính trị và quân sự, được dùng làm nơi xây dựng lực lượng
cách mạng (bao gồm lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang) để từ đó phát triển
rộng ra các nơi khác; là nơi cung cấp về sức mạnh vật chất, quân sự, nguồn cổ
vũ về tinh thần, chính trị trong cách mạng và kháng chiến…”
Ban đầu, Nguyễn
Ái Quốc có ý định từ Trung Quốc về nước theo hướng Lào Cai, Người đã cử đồng
chí Bùi Đức Minh, Hoàng Văn Lộc về biên giới Lào Cai nắm tình hình trong nước
và đặt cơ sở liên lạc để về nước hoạt động. Nhưng qua nghiên cứu kỹ phong trào
cách mạng và địa thế của Cao Bằng, Người đã quyết định chọn địa bàn chiến lược
trọng yếu này xây dựng thành căn cứ địa vững chắc của cả nước.
Vậy tại sao lại là Cao Bằng mà không phải là hướng nào khác? Bởi lẽ
trong suy nghĩ của Người, Cao Bằng đã quy tụ được nhiều yếu tố cần thiết.
Việc Nguyễn Ái
Quốc chọn Cao Bằng để về nước hoạt động và xây dựng căn cứ địa cách mạng hoàn
toàn không phải là tình cờ hay ngẫu nhiên mà là một sự tính toán kỹ lưỡng, liên
quan tới việc phát triển phong trào cách mạng của cả nước.
Trước hết, Cao
Bằng là tỉnh giáp với biên giới Trung Quốc, gần thành phố Long Châu, một trong
những trung tâm cách mạng của người Việt ở Trung Quốc lúc bấy giờ.
Phía Nam của
tỉnh Cao Bằng giáp với Lạng Sơn và Bắc Cạn, phía Tây giáp với Hà Giang và Tuyên
Quang. Từ vị trí đó, Cao Bằng có thể “Nam tiến” phát triển về phía Lạng Sơn và
Bắc Cạn, có thể “Tây tiến” sang Hà Giang và Tuyên Quang. Theo quốc lộ 3 từ Hà
Nội qua Thái Nguyên, Bắc Cạn, lên Cao Bằng (315 km). “Từ trung tâm tỉnh lỵ Cao
Bằng có đường ô tô tỏa đi các huyện. Những huyện tiếp giáp biên giới như Trà
Lĩnh, Phục Hòa, Trùng Khánh, Hà Quảng, Bảo Lạc… với đường biên giới dài trên
300km, có tới hàng chục cửa khẩu và hàng trăm lối mòn sang Trung Quốc, tiện lợi
cho việc liên lạc quốc tế. Trong đó, đường Quảng Uyên ra Thủy Khẩu, Long Châu
(Trung Quốc) trở thành con đường trọng yếu của nhân dân 2 nước vùng biên, của
các chiến sĩ cách mạng đầu thế kỷ XX và phong trào giải phóng dân tộc dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam”.
Cao Bằng còn có quốc lộ sang Lạng Sơn, xuống Thái Nguyên rồi tỏa xuống đồng
bằng Bắc Bộ, tiện lợi cho việc liên kết với các phong trào cách mạng của cả
nước.
Bên cạnh đó, Cao
Bằng có địa hình hiểm trở, rừng núi chiếm trên 90% diện tích, có nhiều núi cao,
nhiều sông suối, lắm thác ghềnh như: sông Bằng, sông Hiến, Sông Gâm, sông Bắc
Vọng… Trên mảnh đất đầy núi non, rừng rậm, sông suối đó có những vùng thuận lợi
cho các đội du kích, các cơ sở cách mạng hoạt động như Pác Bó (Hà Quảng), Lam
Sơn (Hòa An)… Hệ thống giao thông thủy bộ của Cao Bằng giữ vị trí quan trọng có
tầm chiến lược ở Việt Bắc không chỉ trên lĩnh vực kinh tế, xã hội mà cả về
chính trị, quân sự.
Do quá trình
kiến tạo địa chất, cùng với sự tác động của khí hậu, sông ngòi ngang, dọc làm
cho địa hình Cao Bằng trở thành muôn hình, muôn vẻ. Giữa các ngọn núi và khe
sâu, thung lũng lòng chảo rộng, hẹp khác nhau, hết sức kín đáo, vừa thuận lợi
sản xuất, đời sống, vừa có tác dụng che dấu, bảo vệ lực lượng. “Khi có giặc giã
thì hang động, mái đá ngườm kín đáo, là nơi tốt nhất để đồng bào các dân tộc ẩn
náu và cất giấu lương thực, thực phẩm, gia súc. Các làng bản miền núi thường có
hang sâu hay lân, lũng làm “hậu cứ”. Có hang bí mật chỉ có một gia đình biết
như hang Pác Bó (Hà Quảng, Cao Bằng), là nơi cất giấu thóc gạo của ông Máy Lì ở
Sum Đắc, gần cột mốc biên giới. Địa hình hiểm trở của núi, sông, các thung
lũng, hang động, mái đá ngườm… được nhân dân ta phát huy tác dụng mạnh mẽ trong
cách mạng giải phóng dân tộc và trong kháng chiến. Đó là “rừng che bộ đội, rừng
vây quân thù”.
Hơn nữa, Cao Bằng có gần 10% diện tích đất bằng với một số cánh đồng vừa
và nhỏ. Dọc theo các con sông, trên các thung lũng như: Sóc Hà, Đôn Chương, Phù
Ngọc, Đồng Mu, Bó Thạch, Thạch Bình, Cổ Nồng, Thông Huề, Pò Tấu, Tiên Thành, lớn
nhất là cánh đồng Hòa An, trải dài tới 20km”. Xét về chiến lược kinh tế thì một
căn cứ địa phải có khả năng tự cung tự cấp những nhu cầu kinh tế thiết yếu… Do
vậy, đây là điều kiện rất thuận lợi để Nguyễn Ái Quốc lựa chọn Cao Bằng là căn
cứ địa cách mạng.
Trung ương Đảng
và Nguyễn Ái Quốc chọn Cao Bằng làm nơi xây dựng căn cứ địa là một chủ trương
hết sức đúng đắn. Bởi lẽ, Cao Bằng có đầy đủ các điều kiện cần thiết về địa
thế, con người để xây dựng căn cứ địa, trong đó yếu tố con người là quyết định
nhất.
Con người Cao
Bằng giản dị, chân thành và chất phác, đã tin ai thì ít thay lòng đổi dạ, nên
khi tiếp thu ánh sáng cách mạng của Đảng, đồng bào có một niềm tin son sắt vào
thắng lợi. Đó chính là chỗ dựa vững chắc để Đảng ta xây dựng căn cứ địa.
Bên cạnh đó, mối
quan hệ giữa Nguyễn Ái Quốc và Hoàng Văn Nọn- một trong những đảng viên cộng
sản đầu tiên của Cao Bằng trong thời gian diễn ra Đại hội VII Quốc tế Cộng sản
ở Mátxcơva (7-1935) cũng đóng một vai trò nhất định trong việc Nguyễn Ái Quốc
chọn Cao Bằng là nơi đầu tiên Người về nước. Qua tiếp xúc với Hoàng Văn Nọn
(Hoàng Như), Nguyễn Ái Quốc hiểu thêm về phong trào cách mạng cũng như con
người Cao Bằng.
Cuộc gặp gỡ giữa
Nguyễn Ái Quốc và hơn 40 thanh niên Cao Bằng đang hoạt động tại Tịnh Tây (Trung
Quốc) trước khi Người về nước, đánh dấu sự khởi đầu cho sự hình thành căn cứ
địa cách mạng Việt Nam trên đất Cao Bằng. Đứng trước tình hình nóng bỏng và đòi
hỏi của lịch sử, Nguyễn Ái Quốc đã quyết định đưa toàn bộ những thanh niên Cao
Bằng về nước để chuẩn bị lực lượng… “Đầu tháng Giêng năm 1941, Nguyễn Ái Quốc
cùng các cán bộ Trung ương Đảng và nhóm thanh niên Cao Bằng rời Tịnh Tây về Cao
Bằng hoạt động. Cao Bằng thực sự trở thành căn cứ địa đầu tiên của cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc ở nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng”.
Song yếu tố quan
trọng góp phần đi đến quyết định lựa chọn của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc là "Cao
Bằng có phong trào tốt từ trước”. Nhân dân Cao Bằng có truyền thống yêu
nước, chống ngoại xâm; đây là nơi sớm có tổ chức cách mạng, Đảng Cộng
sản Việt Nam được thành lập ngày 3-2-1930, chi bộ Đảng đầu tiên của Cao Bằng
thành lập sau đó ngày 1-4-1930. Cho đến cuối những năm 30 của thế kỷ XX,
phong trào cách mạng ở Cao Bằng đã có những bước phát triển đáng kể. Dưới sự
lãnh đạo của các chi bộ Đảng Cộng sản Đông Dương, cuộc đấu tranh của các tầng
lớp nhân dân, đặc biệt là công nhân chống lại ách áp bức, bóc lột của chủ nghĩa
thực dân Pháp đã tương đối phát triển và thu được nhiều kết quả.
Vì vậy, khi quyết định chọn Cao Bằng là nơi trở về Tổ quốc, tháng
10-1940, đang ở Trung Quốc, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã nhận định: “Căn cứ địa
Cao Bằng sẽ mở ra triển vọng lớn cho cách mạng nước ta. Cao Bằng có phong trào
tốt từ trước, lại kề sát biên giới, lấy đó làm cơ sở liên lạc quốc tế rất thuận
lợi. Nhưng từ Cao Bằng còn phải phát triển về Thái Nguyên và thông xuống nữa
mới có thể tiếp xúc với toàn quốc được. Có nối phong trào được với Thái Nguyên
và toàn quốc thì khi phát động đấu tranh vũ trang, lúc thuận lợi có thể tiến
công, lúc khó khăn có thể giữ”.
Với nhận định, đánh giá và sự lựa chọn đúng đắn đó, “sáng ngày 28-1-1941
(tức mùng 2 tết Tân Tỵ), Nguyễn Ái Quốc và các đồng chí cán bộ Trung ương Đảng
được đồng chí Lê Quảng Ba dẫn đường, rời đất Trung Quốc qua cột mốc biên giới
số 108, về đến Pác Bó, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Sau vài
ngày ở nhà ông Lý Quốc Súng, ngày 8-2-1941, Người chuyển tới hang Cốc Bó”.
![]() |
Ngày 28/01/1941, Bác Hồ về nước trực tiếp lãnh đạo Cách mạng Việt Nam |
Đảng bộ Cao
Bằng, nhân dân Pác Bó (Cốc Bó) tự hào được đón tiếp Người. Hang Cốc Bó, lán
Khuổi Nặm, núi Lam Sơn cùng những bản làng hẻo lánh ít người biết đến đã trở
thành những địa danh nổi tiếng gắn liền với sự hoạt động vĩ đại của lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc. Từ Pác Bó (đầu nguồn), Người đặt tên núi Các Mác, suối Lênin,
đó là những biểu tượng cao đẹp của thời đại. Và cũng từ đó, tư tưởng Mác -
Lênin đã tỏa khắp đất nước, thức tỉnh nhân dân ta, tổ chức quần chúng đứng lên
đấu tranh đập tan chế độ gông xiềng của đế quốc Pháp, Nhật. Được vũ trang bởi
tư tưởng Mác - Lênin, lại được sự chỉ đạo trực tiếp của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
(với bí danh Già Thu), trong những năm 1941- 1945, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc
tỉnh Cao Bằng xây dựng căn cứ địa cách mạng vững chắc, cùng đồng bào cả nước
chuẩn bị lực lượng cho tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 giành thắng lợi, nước
Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời, đưa nhân dân Việt Nam từ thân phận người nô
lệ trở thành người chủ nước nhà.
Tóm lại, với
những tư tưởng đúng đắn, sáng tạo về căn cứ địa, cùng với tầm nhìn chiến lược,
Nguyễn Ái Quốc đã phát hiện ra Cao Bằng là nơi hội tụ đủ những điều kiện cần
thiết của một căn cứ địa cách mạng ở buổi ban đầu của cuộc khởi nghĩa vũ trang.
Sự có mặt và hoạt động của Nguyễn Ái Quốc cùng những người đồng chí hướng, miền
rừng núi Pác Bó - Cao Bằng hẻo lánh, xa xôi trở thành cái nôi đầu tiên của cách
mạng Việt Nam. Từ đây, những tư tưởng chỉ đạo cách mạng của Người được đưa vào
thực tiễn một cách nhanh chóng, linh hoạt đã từng bước đưa cách mạng cả nước
tới thành công.-.
Ngọc
Thành – Sưu tầm (Nguồn tuyengiao.vn)
0 nhận xét:
Speak up your mind
Tell us what you're thinking... !